Silymarin là thành phần hoạt chất chính trong Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract), đây là chất vừa chống viêm, chống oxy hóa, có tác dụng hạ đường huyết và đặc biệt là có tác dụng rất mạnh trong việc bảo vệ, phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh về gan.
1. Silymarin – Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract) là gì?
Cây kế sữa có tên khoa học là Silybum marianum, tên tiếng anh là Milk Thistl. Đây là cây có thân dài, mảnh, lá có gai và có bông màu đỏ tím ở đỉnh.
Cây kế sữa là một loại cây có nguồn gốc từ châu Âu và được thực dân đầu tiên đưa đến Bắc Mỹ. Cây kế sữa hiện được tìm thấy trên khắp miền đông Hoa Kỳ, California, Nam Mỹ, Châu Phi, Úc và Châu Á.
Cây kế sữa được đặt tên dựa trên nhựa của cây như sữa chảy ra từ lá khi chúng bị bẻ gãy.
Silymarin là thành phần hoạt chất chính trong Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract), đây là chất vừa chống viêm, chống oxy hóa và có tác dụng hạ đường huyết.
Silymarin – Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract)
Hạt giống cây kế sữa có thể bảo vệ các tế bào gan khỏi các hóa chất và thuốc độc hại.
Silymarin có hai loại chính là Silymarin thường, được chiết xuất theo phương pháp thông thường. Loại thứ hai là Silymarin Phytosome, đây là loại Silymarin được tạo thành từ Công nghệ Phytosomes®, một trong những công nghệ tách chiết dùng để chiết xuất các loại thảo dược, làm cao dược liệu tiên tiến nhất hiện nay.
Silymarin thường và silymarin phytosome
Theo các nhà khoa học, hợp chất silymarin giữ cho độc tố trong máu không bám vào tế bào gan, giúp giải độc cho gan và trung hòa các gốc tự do.
Đây là những phân tử không ổn định có nguồn gốc từ các sản phẩm phụ của quá trình chuyển quá các chất trong cơ thể và chúng có thể gây hại cho các tế bào khỏe mạnh, cuối cùng dẫn đến các vấn đề sức khỏe.
Nghiên cứu y học về cây kế sữa và sức khỏe gan cho thấy, silymarin giúp giảm viêm và thúc đẩy sửa chữa tế bào, từ đó giúp giảm bớt các triệu chứng do các về bệnh gan như vàng da, xơ gan, ung thư gan và bệnh gan nhiễm mỡ.
2. Silymarin là một chất giải độc và bảo vệ gan
Một số tác nhân hóa trị liệu được chuyển hóa ở gan: dactinomycin, daunorubicin, docetaxel, gemcitabine, imatinib, 6-mercillinurine, methotrexate và oxaliplatin.
Bệnh nhân ung thư sử dụng các liệu pháp này thường tự điều trị bằng Silymarin vì nó được biết đến là thuốc bảo vệ gan. Các bác sĩ lâm sàng cũng kê đơn thuốc có Silymarin cho bệnh nhân ung thư với cùng một mục đích.
Lý do của việc sử dụng cây kế sữa là cung cấp sự hỗ trợ cho gan trong thực hiện các chức năng cơ bản, bao gồm đáp ứng nhu cầu trao đổi chất tăng lên do sự phát triển của khối u, hỗ trợ chuyển hóa các sản phẩm được tạo ra khi khối u bị giết hoặc bị làm giảm do hóa trị và xạ trị, và tham gia vào việc hoàn thiện các thuốc được kê đơn cho bệnh nhân ung thư.
Silymarin cũng được coi là chất ức chế mạnh beta-glucuronidase trong ruột người, ngăn chặn sự giải phóng và tái hấp thu các chất ngoại bào tự do và các chất chuyển hóa của chúng qua các liên hợp glucuronide.
Bởi vì gan là cơ quan chính giúp làm sạch và giải độc máu, nhiều quá trình giải độc bao gồm một thành phần hỗ trợ thường được gọi là chất làm sạch gan. Vì những lý do này, Silymarin thường được bao gồm trong chế độ điều trị giải độc.
Tuy nhiên, chỉ có một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi đã báo cáo tác dụng của Silymarin ở bệnh nhân đang điều trị ung thư; 50 trẻ mắc bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính và độc tính gan độ 2 trở lên được chọn ngẫu nhiên để được điều trị:
- Nhóm với một chất bổ sung từ cây cây kế sữa (Siliphos, Thorne Research, Dover, Idaho) (5,1 mg / kg / ngày).
- Nhóm còn lại dùng giả dược trong 28 ngày.
Các tác giả đã báo cáo việc giảm đáng kể nồng độ AST (P <0,05) và xu hướng giảm đáng kể nồng độ ALT (P <0,07). Một số lượng lớn trẻ em trong nhóm dùng Silymarin > 50% tổng lượng bilirubin vào ngày 28 so với giả dược (P <0,0069).
3. Silymarin trong tổn thương gan cấp tính
Việc sử dụng Silymarin trong khoảng 48 giờ sau khi bị ngộ độc do nấm Amanita phalloides (mũ tử thần) dường như là một biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa tổn thương gan nghiêm trọng.
Một phân tích hồi cứu 205 trường hợp ngộ độc lâm sàng từ năm 1971 đến năm 1980 cho thấy hiệu quả của chiết xuất Silymarin của cây kế sữa trong việc tăng tỷ lệ sống sót ở người lớn và trẻ em bị phơi nhiễm với loại nấm gây chết người này.
Vào tháng 1 năm 2007, sáu thành viên của một gia đình ở California bị ngộ độc aflatoxin do nấm A. phalloides gây ra đã được điều trị bằng chiết xuất cây kế sữa qua đường tĩnh mạch, được cung cấp bởi Madaus Pharma (Brussels, Bỉ; bộ phận của Madaus AG, Cologne, Đức).
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã cấp phép sử dụng cây kế sữa sau khi xem xét tất cả bệnh nhân có nguy cơ tử vong cao do suy gan.
Cuối cùng, một trong sáu bệnh nhân đã chết, trong khi những người khác đã bình phục hoàn toàn sau khi điều trị. Một trường hợp được báo cáo đề cập rằng Silymarin có thể bảo vệ khỏi độc tính gan do thuốc chứa phenytoin.
4. Silymarin trong bệnh gan mạn tính
Các hợp chất flavonoid khác nhau được bao gồm trong thuật ngữ “cây kế sữa” đã được công nhận là một loại thảo mộc an toàn và có khả năng dung nạp tốt với một hồ sơ hạn chế về các trường hợp không mong muốn.
Như đã báo cáo trước đây, các nghiên cứu chủ yếu đã được tiến hành bằng cách sử dụng Silymarin sử dụng cho cả những bệnh nhân bị xơ gan do rượu hoặc do virus.
Điều trị tích cực có sử dụng phối hợp silymarin qua đường uống trong 10 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, silymarin phytosome đường uống trong hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên và silymarin + phosphatidylcholine trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
Các nghiên cứu của nhóm hợp tác của Cochrane đã kết luận rằng Silymarin dường như không ảnh hưởng đáng kể đến các nguyên nhân gây bệnh bệnh ở những bệnh nhân được điều trị.
Tuy nhiên, ở những bệnh nhân mắc bệnh gan do rượu mà không có kháng thể HCV, được dùng chiết xuất cây kế sữa, tất cả các nguyên nhân gây tử vong đã giảm 50% so với nhóm dùng giả dược (P <0,05); trong các thử nghiệm nghiên cứu tỷ lệ tử vong liên quan đến gan, có thế thấy được tác dụng đáng kể của Silymarin (nguy cơ tương đối, 0,50; KTC 95% 0,29 đến 0,88; P = 0,02).
Seeff và cộng sự đã kiểm tra việc sử dụng các sản phẩm thảo dược tự phát ở Mỹ ở những bệnh nhân bị nhiễm HCV mạn tính, bao gồm cả những người không đáp ứng với điều trị trước đó bằng interferon và ribavirin.
Trong 1145 bệnh nhân, khoảng 50% sản phẩm thảo dược đã sử dụng; trong số này, Silymarin đã được sử dụng 70%. Ngay cả khi không thấy sự thay đổi trong xét nghiệm gan và / hoặc nồng độ huyết thanh của HCV-RNA, phân tích đơn biến ghi nhận tỷ lệ mắc các triệu chứng thấp hơn và chất lượng cuộc sống tốt hơn ở những bệnh nhân sử dụng Silymarin so với những người không dùng.
Trước đây, hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào bệnh xơ gan, đặc biệt là xơ gan do rượu và hiệu quả của Silymarin được đánh giá về độ cải thiện các bất thường về xét nghiệm gan và / hoặc tỷ lệ tử vong (xem ở trên để biết kết quả).
Silymarin beta-cyclodextrin đã được nghiên cứu như một loại thuốc trị đái tháo đường ở bệnh nhân mắc bệnh gan do rượu và đái tháo đường không phụ thuộc insulin.
Ở những bệnh nhân này, thuốc (với liều 135 mg / ngày) không ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm chức năng gan hoặc bài tiết insulin nhưng làm giảm đáng kể glucose lúc đói (P <0,03) và nồng độ triglyceride huyết thanh (P <0,01) so với giả dược. Các tác dụng dường như có liên quan đến việc giảm hiện tượng kháng insulin.
Gần đây, các nghiên cứu đã tập trung vào bệnh viêm gan mạn tính, đặc biệt là do HCV gây ra. Silymarin phytosome, với liều từ 240 mg / ngày đến 942 mg t.i.d. (liều cao nhất được sử dụng ở bệnh nhân bị tổn thương gan) được dung nạp tốt mà không có tác dụng phụ và cải thiện đáng kể các tổn thương gan được chứng minh rõ rệt như qua nồng độ transaminase, yếu tố oxy hóa (nồng độ malondialdehyd huyết thanh) và cả nồng độ ferritin huyết thanh và tồn trữ kim loại trong toàn bộ cơ thể. Ngày nay, các nhà nghiên cứu tập trung vào một tác dụng kháng vi-rút rõ rệt của Silymarin chống lại nhiễm HCV.
Polyak và cộng sự đã thử nghiệm khả năng chống viêm và chống virus của các chất chiết xuất khác nhau từ silymarin trên các tế bào đa nhân từ bệnh nhân bị nhiễm HCV mạn tính, ghi nhận tác dụng chống viêm và kháng virut của chiết xuất silymarin tác dụng mạnh nhất trong chống NF-κB và chống sự nhân lên của HCV.
Ferenci cùng cộng sự, Biermet và cộng sự đã chứng minh rằng Silymarin là một tác nhân chống vi rút mạnh ở những bệnh nhân bị viêm gan C mãn tính không đáp ứng với liệu pháp pegylated interferon / ribavirin. Những nghiên cứu này cũng cho thấy rằng Silybin tiêm tĩnh mạch (từ 5 đến 20 mg / kg / ngày trong 14 ngày) không có tác dụng bất lợi.
5. Silymarin trong bệnh gan nhiễm mỡ
Cuối cùng, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) có thể xảy ra như một biểu hiện của hội chứng chuyển hóa hoặc có liên quan đến nhiễm trùng mãn tính do HCV. Sự xuất hiện đồng thời của NAFLD có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự tiến triển của xơ hóa và đáp ứng với điều trị bằng thuốc kháng vi-rút.
Bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi NAFLD nguyên phát và / hoặc viêm gan mạn tính liên quan đến HCV kết hợp với NAFLD, tất cả những người không đáp ứng với điều trị bằng thuốc kháng vi-rút trước đó, được điều trị bằng bốn lần dùng/ ngày của phức hợp Silymarin – vitamin E-phospholipids tương ứng với khoảng 200 mg silybin tinh khiết / ngày trong ba hoặc sáu tháng.
Việc điều trị làm giảm đáng kể các dấu hiệu trong huyết tương của viêm mãn tính (protein phản ứng C và cytokine), các thông số trao đổi chất (triglyceride, cholesterol, kháng insulin), các chỉ tiêu xét nghiệm gan (transaminase và gamma-glutamyl transpeptidase), mức độ gan nhiễm mỡ và cuối cùng là các chỉ số chính của xơ gan TGF-beta, axit hyaluronic và metallicoproteinase 2).
Trong một mô hình viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, thực hiện trên loài gặm nhấm, phức hợp Silymarin Phytosome đã cho thấy tác dụng ngăn ngừa rối loạn chức năng ty thể.
Và kết quả sơ bộ trong một thử nghiệm lớn, đa trung tâm của Ý cho thấy rằng: so với giả dược, phức hợp Silymarin -vitamin E-phospholipids đã cải thiện rõ rệt tình trạng tổn thương gan ở bệnh nhân NAFLD và các dấu hiệu xơ hóa gan ở bệnh nhân viêm gan mạn tính do HCV.
6. Mua Silymarin – Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract) ở đâu uy tín chất lượng
Silymarin – Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract) đang ngày càng trở nên phổ biến hơn. Trên thị trường xuất hiện ngày càng nhiều các chế phẩm từ cây kế sữa với đủ mọi hình thức: trà túi lọc, cao mềm, dung dịch uống… và đặc biệt là các loại thực phẩm chức năng với Silymarin – Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract) là thành phần chính.
Với những ưu thế khó có thể tìm thấy ở các đơn vị phân phối nguyên liệu dược liệu, Công Ty Cổ Phần Dược Phẩm Thiên Tuế tự hào là đơn vị phân phối sản phẩm Silymarin thông thường và Silymarin Phytosome® cực kì chất lượng, với đầy đủ hồ sơ và giấy tờ chứng minh nguồn gốc sản phẩm cũng như là kiểm định hoạt chất.
Ưu điểm của Silymarin – Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract) tại Thientue Pharma JSC:
- Dược liệu được kiểm tra nghiêm ngặt ngay từ khâu thu hái với đội ngũ những chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm.
- Dược liệu được rửa sạch và cô chiết theo phương pháp thích hợp tại nhà máy theo tiêu chuẩn GMP Đông Dược.
- Cao dược liệu được chiết xuất theo dây chuyền khép kín, đảm bảo vô khuẩn, hạn chế nhiễm vi sinh.
- Phòng ra cao sạch, đạt cấp độ D (theo nguyên tắc GMP Đông Dược).
Sản phẩm Silymarin – Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract) được bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh nắng trực tiếp.
Với ưu thế sở hữu dây chuyền sản xuất cao khô/cao lỏng dược liệu hiện đại, đạt chuyển GMP, Công ty Cổ phần Dược phẩm Thiên Tuế tự hào là nhà phân phối các loại Silymarin – Chiết xuất Cây Kế Sữa | Cao khô Kế Sữa (Silymarin – Milk Thistle extract) đáp ứng được yêu cầu sản xuất của Quý khách hàng.
Chúng tôi xin chân thành cám ơn quý độc giả đã đọc bài viết. Mọi thắc mắc về nội dung hoặc các khiếu nại về bản quyền, xin vui lòng gởi thông tin vào địa chỉ email: knowalot.net@gmail.com
Mr. Know xin chân thành cám ơn.